Ý kiến thăm dò

Truy cập

Hôm nay:
1
Hôm qua:
0
Tuần này:
1
Tháng này:
0
Tất cả:
6606

SỰ TÍCH TÔN THẦN ĐỀN HỔ BÁI

Ngày 15/03/2024 00:00:00

Nhân dịp Lễ hội truyền thống Đền Hổ Bái - Làng Hổ Bái, xã Yên Trường, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hoá hàng năm vào ngày mùng 9 tháng 2 âm lịch; xin gửi tới bạn đọc và du khách thập phương bản Thần phả Đền Hổ Bái - Ngôi Đền cổ thờ người con thứ 11 của Lạc Long Quân, Huý Hợp Lang, tước Lạc Hầu.

THẦN PHẢ ĐỀN HỔ BÁI (9.2.2024).pdf

 

THN PH ĐỀN HỔ BÁI

LÀNG HỔ BÁI, XÃ YÊN TRƯỜNG, YÊN ĐỊNH, THANH HOÁ

----------------------



Dịch nghĩa:

SỰ TÍCH TÔN THẦN ĐỀN Hổ BÁI

Họ Việt thường1 triều nhà Trần có bậc công thần giúp nước, có linh thiêng ứng nghiệm lớn, xứng đáng phong tặng là bậc Phúc thần, bậc Đại vương, sao lục ỏ Ngọc phả cổ, chính bản công thần Bộ Lễ nhà nước (Bộ thứ 8, người em thứ 9 nhân thần, thuộc thuỷ trên quẻ Cấn2).

Nước Việt xưa trời Nam mở vận cơ đồ thánh tổ, đã hơn hai ngàn năm, vận nhà Hùng thịnh vượng gọi là tổ của Bách Việt vậy, trãi đến dòng dõi nhà Hùng Vương rồi Đông Hán, Ngô, Tấn, Lương gồm một tăm bốn chín năm, non sông nước Nam theo vào nội quân, về sau nước Nam ta, bốn họ Đinh, Lê, Lý, Trần đều là các Vua anh hùng nối tiếp cai trị đất nước.

Lại nói thời trước đó đến thời Hùng Vương, Long Quân đi khắp thiên hạ, bỗng gặp Âu Cơ đang sống một mình, hình dung thanh sắc lạ kỳ lớn lao ở cung tiên lạ lắm, Long Quân rất yêu Âu Cơ nên làm những việc tốt khiến cho phong tư càng thêm tuấn tú mỹ lệ, người theo hầu thêm đông, ca hát văn vật như ở trong cung. Âu Cơ thấy Long Quân lòng cũng rất vui và cùng nhau kết nối vợ chồng, được một năm Âu Cơ cảm động có thai sinh ra một bọc cho là không ra gì bèn vứt ở ngoài đồng. Được hơn một tháng trong bọc phá ra 100 trứng, mỗi trứng nở ra một con trai, Long Quân cùng Âu cơ đem về nuôi không quản công lao bú mớm khó nhọc, mỗi cậu bé càng tuấn tú mỹ lệ khác thường, lớn lên có oai dũng lớn, thông minh mẫn tiệp, có trí tuệ toàn vẹn, mọi người đều sợ phục cho là những anh em phi thường, năm đó các cậu đã vào tuổi mười bốn, Long Quân nói với Âu Cơ rằng: Thiếp là người nước bắc lấy nhau sinh được 100 trai, không do cúc dục (nâng đỡ dạy dỗ), xưa theo nhau mà không vứt bỏ khiến thành kẻ không vợ không chồng trên đường trưởng thành vậy. Long Quân bảo rằng: Ta là khí thuộc giống thuỷ, nàng là khí thuộc giống tiên ở núi, gốc vốn không thuộc thuận nhau, nước và lửa xung khắc nhau, tuy ở với nhau lâu phức tạp, khí âm dương không hợp nhau. Ta đem 50 con trai về thuỷ phủ, chia trị các xứ sông, còn nàng cùng 50 con trai chúng ta ở đất núi mà cai trị. Lên núi non, vào sông nước có việc sẽ suy tìm nhau.

Các con đều nghe theo, rồi sau đó từ biệt ra đi. Lúc đó 50 con trai theo mệnh cha đi về thuỷ phủ, chia nhau trấn trị xứ sông nước, cùng phục tùng nhau lập làm quân thần đưa người con trưởng tôn lên làm Vua gọi là Hùng Vương, hiệu nước là Văn Lang3, Đông giáp Nam Hải, Tây tới Ba Thục, Bắc đến Động Đình, Nam tới Hồ Tôn, đều chia trong nước làm 15 bộ: 1 là Giao Chỉ (Hà Nội- Hưng Yên- Nam Định- Ninh Bình- Hà Nam), 2 là Chu Diên (Sơn Tây- Hà Tây), 3 là Vũ Ninh (Bắc Ninh),4 là Phúc Lộc(Sơn Tây- Hà Tây), 5 là Hải Ninh(Hưng Yên- Hải Dương- Quảng Ninh), 6 là Dương Tuyền (Hải Dương), 7 là Lục Hải (Lạng Sơn), 8 là Hoài Hoan (Nghệ An), 9 là Cửu Chân (Thanh Hoá), 10 là Châm Định, 11 là Nhật Nam4 … các con em Vua Hùng chia ra để cai trị dùng thần thuộc vậy. Đặt các con lên làm tướng văn, tướng võ. Tướng văn gọi là Lạc hầu, tướng võ gọi là Lạc tướng, con trai vua gọi là Quan lang, con gái gọi là Mỵ nương. (Còn 50 con trai theo mẹ về núi non trấn trị có phả tích khác).

Lại nói thời đó người con thứ 11 của Long Quân, diện mạo khác thường, trí dũng siêu việt mọi người, tính thích nước vui chơi nơi sông nước, hỏi han bến bờ thuộc người cha, có tên kiêng huý là Hợp Lang, tước xưng là tướng văn Lạc Hầu, chia ở phủ Hoài hoan. Từ đó về sau Lạc Hầu tính bẩm trời sinh, Long Quân có giặc mệnh sai ông nhậm trị ở giang đầu, có thể nổi chìm đùa chơi nơi sông nước hỏi thăm bến bờ, thời gian đó Lạc Hầu bỗng theo dòng Sông Mã, tìm đến sông ngoài nước biếc, đất linh thiêng, bèn một mình hiện hình đi đến đất Trang Chân Bái ở huyện Yên Định, bèn lên trên đất đó nhiều lần ngóng bốn phương, ngắm phía đông, trông phía tây, quan sát vết tích núi đó, xứ nước giao tụ nhau lập thành sông đô ranh giới ở. Thấy ở đất Trang sông nước biếc linh thiêng trong lành, hình sông thế núi uyển chuyển với dãi đất anh linh trọng yếu. Lạc Hầu gọi cụ già Bản Trang xây dựng một ngôi Đền thờ ở trên sông xứ đất Trang là xứ đất có di tích linh thiêng, nhân dân xây dựng ở chính địa điểm này. Lạc hầu bèn biến về thuỷ phủ (tức ngày mùng 4 tháng 4).

Từ đó hàng năm đến ngày mùng 4 tháng 4 nhân dân tiến hành lệ hương đèn cúng tế. Được hơn một năm nhân dân giàu mạnh cho là được hưởng phúc anh linh.

Sau đến Hai bà Trưng tự lập làm Vua đã được ba, bốn năm, vua nhà Hán là Quang Võ sai Mã viện và Lưu Long...vv… đem ba bốn chục vạn quân đên đánh, vì tuyết băng bận binh ở quan ải Chi Lăng, biên tư cáo cấp với Trưng Vương, bèn sai sứ thần đến các đất sông nước, ngầm cầu các dòng dõi con cháu Vua Hùng trước thuộc thuỷ linh Vương để nguyện giúp đỡ. Sứ thần đi đến đất Trang Chân Bái, huyện Yên Định, Phủ Thiệu Thiên thám sát dò hỏi. Bổng gặp ông già Họ Trịnh5 thế nhà học nghiệp thi thư, bèn hỏi sứ giả rằng “Sứ giã vốn cầu tìm việc gì” sứ thần nói hết sự việc, ông họ Trịnh đến trước nói rằng (dân Chân Bái chúng tôi vốn có Đền thần tối cao linh thiêng cầu xin ắt ứng đáp, vì đã trợ giúp cho dòng dõi Vua Hùng trước quân họ hiển hiện vậy). Sứ thần tề chỉnh đầy đủ đến Đền thờ thiêng, ngầm tiến hành yết lễ ở Trang Chân Bái, nhân dân cùng làm lễ yết cầu. Bỗng đến nữa đêm tức ngày mùng 9 tháng 2 tự nhiên đất trời mù mịt nổi mạnh gió mưa, nước sông dâng đầy, đến sáng ngày hôm sau trông về bên tả Cung Đền thấy một người áo mũ sán lạn rực rỡ tay cầm gậy tre thần, cỡi Rồng bạch bơi trên mặt nước, dao, Long, cá, rùa cùng nổi lên ở trên, bèn đứng ở cửa bến sông đọc một câu rằng: “Ta là con Vua Hùng tiếng linh thiêng ở trong dân ta, nhân dân đều là thần tử hiệp, giáo nữ quân” đọc xong biến mất. Đất đó cây cỏ sầm uất thường thường linh thiêng xuất hiện ánh sáng hồng như lửa đỏ, đó là ở đất linh thiêng vậy. Liền hôm sau đó sứ thần cùng nhân dân làm lễ yết tạ, sứ thần trở về tâu lại Trương Vương, bà triệu bản Trang nhân dân cùng tiến binh cả thuỷ bộ điện thờ ở hai bờ sông, tiếng sấm vang trăm dặm, tiến thẳng đến cửa quan Chi Lăng đánh phá một trận lớn, sai binh vốn đến như tiếng sấm thúc khô đụng bất hổ, thế oai đại phá trúc trẻ, quân giặc kinh sợ thấy đều chạy tan, bèn dẹp yên giặc. Trương Vương thấy thế cho là linh thiêng lạ kỳ tự cử tiến binh cùng nhân dân cử trở về chính Đền thiêng Trang Chân Bái tiến hành làm lễ bái yết, mở yến tiệc mừng lớn, khen thưởng uỷ lạo quân dân tiến hành ca hát vui vẻ trong một tháng, ban thưởng cho nhân dân tiền công 60 quan để làm ơn công, tiền ban thêm cho ông già Họ Trịnh tiền bạc 2 lượng, lại hạ lệnh cho nhân dân bản Trang Chân Bái chia làm hai đạo  thần  tử theo tạo lập  hai  bên xứ sông để làm hai khu tả hữu án giữ ranh giới sông nơi hoá linh thiêng. Lại hạ mệnh tu sửa Đền thờ chính ở đất đó. Cùng kỳ hương hoả phụ thờ ban cấp tiền công 27 quan, cho phép được miễn binh lương.

Lệ hàng năm phong tập, mỹ tự chữ đẹp là: Thượng đẳng phúc thần lớn cùng đất nước mãi mãi thịnh vượng.

Phong Đương cảnh thành hoàng hiển hách anh linh tu tề giúp nước. Thượng đẳng phúc thần Đại vương.

Cho phép hai khu tả hữu Trang Chân Bái huyện Yên Định Phủ Thiệu thiên, Châu hoan làm bãi hộ thần thờ hương hoả

Về sau trải đến triều Trần Nhân Tông là Vua anh minh (từ 1293-1313) bổng nhiên năm Trùng Hưng thứ 2 triều Trần Nhân Tông 1286, hai trường thiên mạc gặp hạn hán, lúa mùa bị tổn hại, nhân dân trong thiên hạ phần nhiều bị đói hại, triệu đại nhà Vua bị hoạn nạn, lệnh cho các Đình thần trở về chính ngôi Đền thờ thiêng ở Trang Chân Bái hạ lệnh làm lễ tế cầu đảo, được 3 ngày tự nhiên mây trời mù mịt, trời giáng xuống cơn mưa lớn, ở trước cung Đền thờ bên tả gió êm về sau nhân dân gọi danh hiệu kỳ xứ Cồn Tắt (đất Trường mầm non Yên Bái ngày nay). Vì cho đó là có sự linh thiêng ứng nghiệm, trở về dâng biểu tâu lên nhà Vua trước sự chứng kiến ở cung Đền thờ, núi Tượng là bình phong phía trước, gọi là núi chiếu khí án thông nổi lớn trận mưa to. Từ đó trải khắp thiên hạ bốn phương đều được an ủi vỗ về, người người đều xem đó là sự phúc đức của nhà Vua có anh linh trước Đền, linh truyền cho các cụ già bản Trang Chân Bái tiến hành làm lễ tạ cầu đảo, ban thưởng thêm tiền công 28 quan để làm việc tế thờ xuân thu nhị kỳ bằng tiền công. Tặng phong mỹ tự chữ đẹp là: Thượng đẳng phúc thần muôn đời được thờ cúng tới vô cùng vậy.

Tặng phong Đương cảnh Thành Hoàng hiển hách anh linh, cứu tế rộng khắp, hiệp cùng đất nước linh thiêng, thêm suốt cảm ứng, bậc Đại Vương phúc thần thượng đẳng tối linh. Cho phép 2 bên tả hữu Trang Chân Bái huyện Yên Định, Phủ Thiệu Thiên, đạo Thanh Hoá phụng thờ y như trước.

Ngày sinh, ngày mất, tên huý thờ lệ khai ra sau:

Tên kiêng huý hai chữ Hợp Lang nhất thiết cấm, khi tiến hành làm lễ, sắc trắng không được mặc vì điều cấm
          Ngày sinh: Ngày 25 tháng 8.

          Ngày mất: Ngày 4 tháng 4.

          Ngày mừng 9 tháng 2.
         
          Ngày làm lễ khánh tiết 13 tháng 11.

                                               Ngày làm năm đầu Hồng phúc 1572.

Quan ở Viện hàm lâm, Đông các đại học sỹ, Nguyễn Bính vâng soạn ngày lành mùa đông triều Vua Vĩnh Hậu thứ 3:  1737.

Quan Quản giám bách thần. Coi điện Hùng Lĩnh Thiếu Khanh là Nguyễn Hiền, vâng sao theo chính bản trước.

 

                          Chuyên viên hán nôm,

                   Trưởng phòng Địa chí Bùi Vĩ dịch.

 

Ghi chú: 1. Họ Việt thường: Chỉ dân tộc Việt ở phía nam trong bách Việt.

2. Quẻ Cấn: là 1 trong 64 quẻ kinh dịch

3. Thời đại Hùng Vương có để lại văn minh trống đồng rực rỡ.

4. 15 bộ ở đây mới biết đến bộ thứ 11 còn thiếu 4 bộ.

5. Họ Trịnh: ở Thanh Hoá họ Trịnh có lâu đời thời Cao Biền nhà Đường đã có thờ anh em Trịnh La. Trịnh Thị Ba là quan quản ra đô bát ở dọc 2 bờ sông Mã

6. Quan tiền cổ: Trong ca dao cũ còn ghi đi chợ sắm giỗ.

 

“Một quan tiền tốt mang đi

Nàng mua những gì mà tính chẳng ra.

Thoạt tiên mua ba tiền gà

Tiền rưỡi gạo nếp với ba đồng trầu.

           Trả lại mua sáu đồng cau...”cấm.


* TẢI THẦN PHẢ GỐC TẠI ĐÂY: THẦN PHẢ ĐỀN HỔ BÁI (9.2.2024).pdfTHẦN PHẢ ĐỀN HỔ BÁI.docx

** MỘT SỐ TÀI LIỆU KHÁC CÓ LIÊN QUAN:
1. Huỵen thoại 100 trứng .docx
2. CÁC ĐỜI VUA HÙNG.docx
3. SỰ_TÍCH_TÔN_THẦN_ĐỀN_HỔ_BÁI_XÃ_YÊN_BÁI,_HUYỆN_YÊN.docx

*** MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ NGÔI ĐỀN CỔ - ĐỀN HỔ BÁI:

z5245505753875_d0677e0881c96cf0861a988d03e67771.jpg
z5245505509616_4abe128cc364f0931f70e02c9cfae8f7.jpg
z5245505732011_c6bf49ce28abd29c9a88aabf171a0c54.jpg
z5245505743070_8536567d93cb6821671cf2ce20e45794.jpg
z5245505702088_68d708dcd277f9c7e5149068e42b1edd.jpg
z5245505730987_8d4270d62aff45ef36a852228389bd30.jpg
z5245505504891_87d7f24c0376d0855eb44e7a33c22d6a.jpg

SỰ TÍCH TÔN THẦN ĐỀN HỔ BÁI

Đăng lúc: 15/03/2024 00:00:00 (GMT+7)

Nhân dịp Lễ hội truyền thống Đền Hổ Bái - Làng Hổ Bái, xã Yên Trường, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hoá hàng năm vào ngày mùng 9 tháng 2 âm lịch; xin gửi tới bạn đọc và du khách thập phương bản Thần phả Đền Hổ Bái - Ngôi Đền cổ thờ người con thứ 11 của Lạc Long Quân, Huý Hợp Lang, tước Lạc Hầu.

THẦN PHẢ ĐỀN HỔ BÁI (9.2.2024).pdf

 

THN PH ĐỀN HỔ BÁI

LÀNG HỔ BÁI, XÃ YÊN TRƯỜNG, YÊN ĐỊNH, THANH HOÁ

----------------------



Dịch nghĩa:

SỰ TÍCH TÔN THẦN ĐỀN Hổ BÁI

Họ Việt thường1 triều nhà Trần có bậc công thần giúp nước, có linh thiêng ứng nghiệm lớn, xứng đáng phong tặng là bậc Phúc thần, bậc Đại vương, sao lục ỏ Ngọc phả cổ, chính bản công thần Bộ Lễ nhà nước (Bộ thứ 8, người em thứ 9 nhân thần, thuộc thuỷ trên quẻ Cấn2).

Nước Việt xưa trời Nam mở vận cơ đồ thánh tổ, đã hơn hai ngàn năm, vận nhà Hùng thịnh vượng gọi là tổ của Bách Việt vậy, trãi đến dòng dõi nhà Hùng Vương rồi Đông Hán, Ngô, Tấn, Lương gồm một tăm bốn chín năm, non sông nước Nam theo vào nội quân, về sau nước Nam ta, bốn họ Đinh, Lê, Lý, Trần đều là các Vua anh hùng nối tiếp cai trị đất nước.

Lại nói thời trước đó đến thời Hùng Vương, Long Quân đi khắp thiên hạ, bỗng gặp Âu Cơ đang sống một mình, hình dung thanh sắc lạ kỳ lớn lao ở cung tiên lạ lắm, Long Quân rất yêu Âu Cơ nên làm những việc tốt khiến cho phong tư càng thêm tuấn tú mỹ lệ, người theo hầu thêm đông, ca hát văn vật như ở trong cung. Âu Cơ thấy Long Quân lòng cũng rất vui và cùng nhau kết nối vợ chồng, được một năm Âu Cơ cảm động có thai sinh ra một bọc cho là không ra gì bèn vứt ở ngoài đồng. Được hơn một tháng trong bọc phá ra 100 trứng, mỗi trứng nở ra một con trai, Long Quân cùng Âu cơ đem về nuôi không quản công lao bú mớm khó nhọc, mỗi cậu bé càng tuấn tú mỹ lệ khác thường, lớn lên có oai dũng lớn, thông minh mẫn tiệp, có trí tuệ toàn vẹn, mọi người đều sợ phục cho là những anh em phi thường, năm đó các cậu đã vào tuổi mười bốn, Long Quân nói với Âu Cơ rằng: Thiếp là người nước bắc lấy nhau sinh được 100 trai, không do cúc dục (nâng đỡ dạy dỗ), xưa theo nhau mà không vứt bỏ khiến thành kẻ không vợ không chồng trên đường trưởng thành vậy. Long Quân bảo rằng: Ta là khí thuộc giống thuỷ, nàng là khí thuộc giống tiên ở núi, gốc vốn không thuộc thuận nhau, nước và lửa xung khắc nhau, tuy ở với nhau lâu phức tạp, khí âm dương không hợp nhau. Ta đem 50 con trai về thuỷ phủ, chia trị các xứ sông, còn nàng cùng 50 con trai chúng ta ở đất núi mà cai trị. Lên núi non, vào sông nước có việc sẽ suy tìm nhau.

Các con đều nghe theo, rồi sau đó từ biệt ra đi. Lúc đó 50 con trai theo mệnh cha đi về thuỷ phủ, chia nhau trấn trị xứ sông nước, cùng phục tùng nhau lập làm quân thần đưa người con trưởng tôn lên làm Vua gọi là Hùng Vương, hiệu nước là Văn Lang3, Đông giáp Nam Hải, Tây tới Ba Thục, Bắc đến Động Đình, Nam tới Hồ Tôn, đều chia trong nước làm 15 bộ: 1 là Giao Chỉ (Hà Nội- Hưng Yên- Nam Định- Ninh Bình- Hà Nam), 2 là Chu Diên (Sơn Tây- Hà Tây), 3 là Vũ Ninh (Bắc Ninh),4 là Phúc Lộc(Sơn Tây- Hà Tây), 5 là Hải Ninh(Hưng Yên- Hải Dương- Quảng Ninh), 6 là Dương Tuyền (Hải Dương), 7 là Lục Hải (Lạng Sơn), 8 là Hoài Hoan (Nghệ An), 9 là Cửu Chân (Thanh Hoá), 10 là Châm Định, 11 là Nhật Nam4 … các con em Vua Hùng chia ra để cai trị dùng thần thuộc vậy. Đặt các con lên làm tướng văn, tướng võ. Tướng văn gọi là Lạc hầu, tướng võ gọi là Lạc tướng, con trai vua gọi là Quan lang, con gái gọi là Mỵ nương. (Còn 50 con trai theo mẹ về núi non trấn trị có phả tích khác).

Lại nói thời đó người con thứ 11 của Long Quân, diện mạo khác thường, trí dũng siêu việt mọi người, tính thích nước vui chơi nơi sông nước, hỏi han bến bờ thuộc người cha, có tên kiêng huý là Hợp Lang, tước xưng là tướng văn Lạc Hầu, chia ở phủ Hoài hoan. Từ đó về sau Lạc Hầu tính bẩm trời sinh, Long Quân có giặc mệnh sai ông nhậm trị ở giang đầu, có thể nổi chìm đùa chơi nơi sông nước hỏi thăm bến bờ, thời gian đó Lạc Hầu bỗng theo dòng Sông Mã, tìm đến sông ngoài nước biếc, đất linh thiêng, bèn một mình hiện hình đi đến đất Trang Chân Bái ở huyện Yên Định, bèn lên trên đất đó nhiều lần ngóng bốn phương, ngắm phía đông, trông phía tây, quan sát vết tích núi đó, xứ nước giao tụ nhau lập thành sông đô ranh giới ở. Thấy ở đất Trang sông nước biếc linh thiêng trong lành, hình sông thế núi uyển chuyển với dãi đất anh linh trọng yếu. Lạc Hầu gọi cụ già Bản Trang xây dựng một ngôi Đền thờ ở trên sông xứ đất Trang là xứ đất có di tích linh thiêng, nhân dân xây dựng ở chính địa điểm này. Lạc hầu bèn biến về thuỷ phủ (tức ngày mùng 4 tháng 4).

Từ đó hàng năm đến ngày mùng 4 tháng 4 nhân dân tiến hành lệ hương đèn cúng tế. Được hơn một năm nhân dân giàu mạnh cho là được hưởng phúc anh linh.

Sau đến Hai bà Trưng tự lập làm Vua đã được ba, bốn năm, vua nhà Hán là Quang Võ sai Mã viện và Lưu Long...vv… đem ba bốn chục vạn quân đên đánh, vì tuyết băng bận binh ở quan ải Chi Lăng, biên tư cáo cấp với Trưng Vương, bèn sai sứ thần đến các đất sông nước, ngầm cầu các dòng dõi con cháu Vua Hùng trước thuộc thuỷ linh Vương để nguyện giúp đỡ. Sứ thần đi đến đất Trang Chân Bái, huyện Yên Định, Phủ Thiệu Thiên thám sát dò hỏi. Bổng gặp ông già Họ Trịnh5 thế nhà học nghiệp thi thư, bèn hỏi sứ giả rằng “Sứ giã vốn cầu tìm việc gì” sứ thần nói hết sự việc, ông họ Trịnh đến trước nói rằng (dân Chân Bái chúng tôi vốn có Đền thần tối cao linh thiêng cầu xin ắt ứng đáp, vì đã trợ giúp cho dòng dõi Vua Hùng trước quân họ hiển hiện vậy). Sứ thần tề chỉnh đầy đủ đến Đền thờ thiêng, ngầm tiến hành yết lễ ở Trang Chân Bái, nhân dân cùng làm lễ yết cầu. Bỗng đến nữa đêm tức ngày mùng 9 tháng 2 tự nhiên đất trời mù mịt nổi mạnh gió mưa, nước sông dâng đầy, đến sáng ngày hôm sau trông về bên tả Cung Đền thấy một người áo mũ sán lạn rực rỡ tay cầm gậy tre thần, cỡi Rồng bạch bơi trên mặt nước, dao, Long, cá, rùa cùng nổi lên ở trên, bèn đứng ở cửa bến sông đọc một câu rằng: “Ta là con Vua Hùng tiếng linh thiêng ở trong dân ta, nhân dân đều là thần tử hiệp, giáo nữ quân” đọc xong biến mất. Đất đó cây cỏ sầm uất thường thường linh thiêng xuất hiện ánh sáng hồng như lửa đỏ, đó là ở đất linh thiêng vậy. Liền hôm sau đó sứ thần cùng nhân dân làm lễ yết tạ, sứ thần trở về tâu lại Trương Vương, bà triệu bản Trang nhân dân cùng tiến binh cả thuỷ bộ điện thờ ở hai bờ sông, tiếng sấm vang trăm dặm, tiến thẳng đến cửa quan Chi Lăng đánh phá một trận lớn, sai binh vốn đến như tiếng sấm thúc khô đụng bất hổ, thế oai đại phá trúc trẻ, quân giặc kinh sợ thấy đều chạy tan, bèn dẹp yên giặc. Trương Vương thấy thế cho là linh thiêng lạ kỳ tự cử tiến binh cùng nhân dân cử trở về chính Đền thiêng Trang Chân Bái tiến hành làm lễ bái yết, mở yến tiệc mừng lớn, khen thưởng uỷ lạo quân dân tiến hành ca hát vui vẻ trong một tháng, ban thưởng cho nhân dân tiền công 60 quan để làm ơn công, tiền ban thêm cho ông già Họ Trịnh tiền bạc 2 lượng, lại hạ lệnh cho nhân dân bản Trang Chân Bái chia làm hai đạo  thần  tử theo tạo lập  hai  bên xứ sông để làm hai khu tả hữu án giữ ranh giới sông nơi hoá linh thiêng. Lại hạ mệnh tu sửa Đền thờ chính ở đất đó. Cùng kỳ hương hoả phụ thờ ban cấp tiền công 27 quan, cho phép được miễn binh lương.

Lệ hàng năm phong tập, mỹ tự chữ đẹp là: Thượng đẳng phúc thần lớn cùng đất nước mãi mãi thịnh vượng.

Phong Đương cảnh thành hoàng hiển hách anh linh tu tề giúp nước. Thượng đẳng phúc thần Đại vương.

Cho phép hai khu tả hữu Trang Chân Bái huyện Yên Định Phủ Thiệu thiên, Châu hoan làm bãi hộ thần thờ hương hoả

Về sau trải đến triều Trần Nhân Tông là Vua anh minh (từ 1293-1313) bổng nhiên năm Trùng Hưng thứ 2 triều Trần Nhân Tông 1286, hai trường thiên mạc gặp hạn hán, lúa mùa bị tổn hại, nhân dân trong thiên hạ phần nhiều bị đói hại, triệu đại nhà Vua bị hoạn nạn, lệnh cho các Đình thần trở về chính ngôi Đền thờ thiêng ở Trang Chân Bái hạ lệnh làm lễ tế cầu đảo, được 3 ngày tự nhiên mây trời mù mịt, trời giáng xuống cơn mưa lớn, ở trước cung Đền thờ bên tả gió êm về sau nhân dân gọi danh hiệu kỳ xứ Cồn Tắt (đất Trường mầm non Yên Bái ngày nay). Vì cho đó là có sự linh thiêng ứng nghiệm, trở về dâng biểu tâu lên nhà Vua trước sự chứng kiến ở cung Đền thờ, núi Tượng là bình phong phía trước, gọi là núi chiếu khí án thông nổi lớn trận mưa to. Từ đó trải khắp thiên hạ bốn phương đều được an ủi vỗ về, người người đều xem đó là sự phúc đức của nhà Vua có anh linh trước Đền, linh truyền cho các cụ già bản Trang Chân Bái tiến hành làm lễ tạ cầu đảo, ban thưởng thêm tiền công 28 quan để làm việc tế thờ xuân thu nhị kỳ bằng tiền công. Tặng phong mỹ tự chữ đẹp là: Thượng đẳng phúc thần muôn đời được thờ cúng tới vô cùng vậy.

Tặng phong Đương cảnh Thành Hoàng hiển hách anh linh, cứu tế rộng khắp, hiệp cùng đất nước linh thiêng, thêm suốt cảm ứng, bậc Đại Vương phúc thần thượng đẳng tối linh. Cho phép 2 bên tả hữu Trang Chân Bái huyện Yên Định, Phủ Thiệu Thiên, đạo Thanh Hoá phụng thờ y như trước.

Ngày sinh, ngày mất, tên huý thờ lệ khai ra sau:

Tên kiêng huý hai chữ Hợp Lang nhất thiết cấm, khi tiến hành làm lễ, sắc trắng không được mặc vì điều cấm
          Ngày sinh: Ngày 25 tháng 8.

          Ngày mất: Ngày 4 tháng 4.

          Ngày mừng 9 tháng 2.
         
          Ngày làm lễ khánh tiết 13 tháng 11.

                                               Ngày làm năm đầu Hồng phúc 1572.

Quan ở Viện hàm lâm, Đông các đại học sỹ, Nguyễn Bính vâng soạn ngày lành mùa đông triều Vua Vĩnh Hậu thứ 3:  1737.

Quan Quản giám bách thần. Coi điện Hùng Lĩnh Thiếu Khanh là Nguyễn Hiền, vâng sao theo chính bản trước.

 

                          Chuyên viên hán nôm,

                   Trưởng phòng Địa chí Bùi Vĩ dịch.

 

Ghi chú: 1. Họ Việt thường: Chỉ dân tộc Việt ở phía nam trong bách Việt.

2. Quẻ Cấn: là 1 trong 64 quẻ kinh dịch

3. Thời đại Hùng Vương có để lại văn minh trống đồng rực rỡ.

4. 15 bộ ở đây mới biết đến bộ thứ 11 còn thiếu 4 bộ.

5. Họ Trịnh: ở Thanh Hoá họ Trịnh có lâu đời thời Cao Biền nhà Đường đã có thờ anh em Trịnh La. Trịnh Thị Ba là quan quản ra đô bát ở dọc 2 bờ sông Mã

6. Quan tiền cổ: Trong ca dao cũ còn ghi đi chợ sắm giỗ.

 

“Một quan tiền tốt mang đi

Nàng mua những gì mà tính chẳng ra.

Thoạt tiên mua ba tiền gà

Tiền rưỡi gạo nếp với ba đồng trầu.

           Trả lại mua sáu đồng cau...”cấm.


* TẢI THẦN PHẢ GỐC TẠI ĐÂY: THẦN PHẢ ĐỀN HỔ BÁI (9.2.2024).pdfTHẦN PHẢ ĐỀN HỔ BÁI.docx

** MỘT SỐ TÀI LIỆU KHÁC CÓ LIÊN QUAN:
1. Huỵen thoại 100 trứng .docx
2. CÁC ĐỜI VUA HÙNG.docx
3. SỰ_TÍCH_TÔN_THẦN_ĐỀN_HỔ_BÁI_XÃ_YÊN_BÁI,_HUYỆN_YÊN.docx

*** MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ NGÔI ĐỀN CỔ - ĐỀN HỔ BÁI:

z5245505753875_d0677e0881c96cf0861a988d03e67771.jpg
z5245505509616_4abe128cc364f0931f70e02c9cfae8f7.jpg
z5245505732011_c6bf49ce28abd29c9a88aabf171a0c54.jpg
z5245505743070_8536567d93cb6821671cf2ce20e45794.jpg
z5245505702088_68d708dcd277f9c7e5149068e42b1edd.jpg
z5245505730987_8d4270d62aff45ef36a852228389bd30.jpg
z5245505504891_87d7f24c0376d0855eb44e7a33c22d6a.jpg

0 bình luận
(Bấm vào đây để nhận mã)

CÔNG KHAI TIẾN ĐỘ GIẢI QUYẾT TTHC